Từ sự xuất hiện của một nhà yến ở ấp An Hòa, xã Tam Thôn Hiệp, huyện Cần Giờ, TP Hồ Chí Minh vào năm 2003 đã đặt dấu son cho nghề nuôi chim yến trên cả nước.
Khó có thể hình dung từ Thái Bình, Ninh Bình đến tận Cà Mau, Kiên Giang và trên cao nguyên với 39 tỉnh/thành có nhà nuôi chim yến.
So với Indonesia có lịch sử gần 70 năm nuôi yến, từ năm 1950 đến nay có hơn 200.000 nhà yến cho sản lượng 2.175 tấn/năm; Malaysia gần 40 năm, từ năm 1986 đến nay có hơn 60.000 nhà yến cho sản lượng 200 tấn/năm và Thái Lan 30 năm, từ 1996 đến nay có gần 5.000 nhà yến cho sản lượng 70 tấn/năm, nghề nuôi chim yến ở VN mới 12 năm, đến nay đã có 4.926 nhà yến với 937.810 m2 diện tích sàn nuôi, ước tổng đàn chim yến là 5.657.000 con và sản lượng đang khai thác trong năm 2015 gần 40 tấn tổ yến.
So với yến đảo VN, yến đảo Cù Lao Chàm - Hội An (Quảng Nam) đạt sản lượng 800 - 1.000kg, bán đảo Phương Mai (Bình Định) 700 - 800kg và đảo yến Khánh Hòa 3.480kg, cộng lại chỉ hơn 5 tấn/năm thì sản lượng tổ yến nuôi nhiều gấp 8 lần tổ yến đảo.
Sản lượng tổ yến đảo không tăng nhiều. Số liệu yến đảo năm 1996 là 4 tấn, đến nay 2015, sau 20 năm là 5 tấn chỉ tăng 25%.
Nhiều nhà chuyên môn cũng nhận định trong 10 năm tới tổ yến đảo cũng có tăng nhưng rất ít và có đảo bị sụt giảm. Tỷ lệ tăng thì cũng ở mức 5 - 8%/năm, do các vùng ven biển từ Thanh Hóa tới Bình Thuận đang nhộn nhịp hình thành các khu nghỉ dưỡng, resort, khách sạn cao cấp , các vùng ven biển trước đây sản sinh côn trùng cho chim yến nay bị đẩy lùi ra xa, nhiều đàn chim tơ yến từ đảo đi săn mồi sẽ khoảng 50 - 60% không trở về đảo mà vào những nhà yến trong đất liền trú ở.
Hiện tổ yến VN vẫn cung chưa đủ cầu tiêu dùng trong nước, mỗi năm các thương lái đã đưa yến Malaysia, Thái Lan và Campuchia về gần 15 tấn (số liệu hải quan khoảng trên 10 tấn, còn lại là nhập không kiểm soát) nhưng tổ yến Việt Nam cũng đã được các nhà kinh doanh đưa bán tại nhiều thị trường như Bắc Mỹ, EU, Úc, Nhật, Đài Loan, Hồng Kông, Ma Cao và Trung Quốc… dưới dạng nguyên tổ làm sạch giao cho thương nhân mang về nước, con số này không ít, cũng gần 2 tấn/năm.
Ngành nuôi chim yến ở VN là ngành sản xuất, không khói mới nên gần như chưa được các nhà hoạch định chính sách của nhà nước quan tâm, nhưng đã tự hình thành phát triển và đứng vững.
TP Hồ Chí Minh là trung tâm nuôi chim yến lớn nhất cả nước, kế tiếp là Kiên Giang, Tiền Giang, Bạc Liêu và một số tỉnh miền Trung có số nhà và sản lượng tổ yến thu nhiều.
Trong doanh thu mua bán tổ yến trên thế giới, tính vào năm 2010 là hơn 6 tỷ USD. Doanh số này đang sụt giảm vì nhiều vùng nuôi chim yến ở Indonesia, Malaysia và Thái Lan bị chựng lại do nhiều nguyên nhân, trong đó nguồn sản sinh côn trùng tự nhiên làm mồi ăn cho chim yến đã tới hạn bắt đầu đang suy kiệt dần. Nạn cháy rừng hàng năm và tác động El Nino cũng là một nguyên nhân.
Tại các nước này, trước đây có nhiều khu nuôi chim yến tập trung rất sung túc, tổng đàn chim yến rất đông, nay rất thưa thớt như “làng nhà bê tông chết”.
Nguyên nhân thất bại là khi xây dựng những làng chim yến không tính toán đúng tốc độ đô thị hóa, resort nghỉ dưỡng và các cơ xưởng đã xóa các vùng cung cấp mồi ăn cho chim yến, nên sau 15 - 20 năm những nơi nuôi chim yến tập trung gần 40% thất bại. Sản lượng tổ yến nuôi của các nước này đang giảm sút.
Tiềm năng
Ở Việt Nam, điều kiện thiên nhiên nằm ven biển, khí hậu nhiệt đới và cận nhiệt đới, nhiều rừng ngập mặn, rừng phòng hộ, đồng lúa nước, các cây trồng nhiệt đới và cả dãy Trường Sơn nơi có rất nhiều rừng cây bụi nên có sức sản sinh môi trường tự nhiên vô cùng phong phú, dồi dào chủng loại côn trùng nên trong vòng 30 - 50 năm tới tình trạng này vẫn còn giữ nguyên, nguồn côn trùng mồi ăn vẫn đủ thỏa mãn cho tổng đàn chim nuôi vài chục triệu đến trăm triệu con. Ngành nuôi chim yến của VN có thể tiến xa hơn nhiều so với các nước ASEAN như Thái Lan và Malaysia.
Theo tính toán của các nhà điểu học, tỷ lệ tăng dân số cơ học của tổng đàn chim yến VN là 10,4%/năm, đến năm 2020 tổng đàn chim yến VN sẽ là 9,28 triệu con và sản lượng tổ yến sẽ là 72,5 tấn; đến năm 2025 sẽ là 15,585 triệu con và sản lượng tổ 121,5 tấn; đến năm 2030 sẽ là 25,560 triệu con và sản lượng tổ là 200 tấn và đến năm 2035 sẽ là 42 triệu con và sản lượng tổ sẽ là 327 tấn.
Sau năm 2030, sản lượng tổ yến nuôi VN đạt 200 tấn/năm sẽ có 150 tấn tổ yến xuất khẩu trị giá khoảng 300 triệu đô Mỹ/năm và đến năm 2035, sản lượng tổ yến nuôi là 327 tấn, trong đó sẽ có 250 tấn xuất khẩu trị giá khoảng 450 triệu USD và sau năm 2050 việc xuất khẩu đạt 1 tỷ USD tổ yến VN là có thể.
Nghề nuôi chim yến ở các nước ASEAN được các nhà hoạch định kinh tế nhận định là ngành công nghiệp xanh/sạch, không khói... sử dụng một diện tích đất rất khiêm tốn, dùng rất ít công nhân, không tốn kém điện năng, tạo ra nguồn thực phẫm dinh dưỡng bồi bổ sức khỏe có giá trị xuất khẩu ngoại tệ lớn.
Tới năm 2035, để có chỗ ở cho 42 triệu chim yến, VN cần có 700.000m2 sàn nhà yến hữu dụng hay khoảng 9.000 - 10.000 nhà yến, cần khoảng 300 - 400ha đất, sử dụng 13 triệu kW điện/năm. Tạo việc làm cho 20.000 lao động giản đơn chăm sóc nhà yến, 150.000 công lao động xây dựng (xây dựng thêm 5.000 nhà yến) và 120 triệu công lao động chế biến tổ yến mỗi năm, hiệu quả kinh tế dây chuyền rất lớn (Indonesia, mỗi năm sử dụng hơn 500 triệu công lao động chế biến tổ yến xuất khẩu).
Nhu cầu vốn, bản thân chủ đầu tư tự giải quyết tốt vì vốn đầu tư không cao, khoảng 1,5 - 2 tỷ đồng cho một nhà yến 300 - 500m2.
Theo Nguyễn Chung (Nông Nghiệp Việt Nam)
So với yến đảo VN, yến đảo Cù Lao Chàm - Hội An (Quảng Nam) đạt sản lượng 800 - 1.000kg, bán đảo Phương Mai (Bình Định) 700 - 800kg và đảo yến Khánh Hòa 3.480kg, cộng lại chỉ hơn 5 tấn/năm thì sản lượng tổ yến nuôi nhiều gấp 8 lần tổ yến đảo.
Sản lượng tổ yến đảo không tăng nhiều. Số liệu yến đảo năm 1996 là 4 tấn, đến nay 2015, sau 20 năm là 5 tấn chỉ tăng 25%.
Nhiều nhà chuyên môn cũng nhận định trong 10 năm tới tổ yến đảo cũng có tăng nhưng rất ít và có đảo bị sụt giảm. Tỷ lệ tăng thì cũng ở mức 5 - 8%/năm, do các vùng ven biển từ Thanh Hóa tới Bình Thuận đang nhộn nhịp hình thành các khu nghỉ dưỡng, resort, khách sạn cao cấp , các vùng ven biển trước đây sản sinh côn trùng cho chim yến nay bị đẩy lùi ra xa, nhiều đàn chim tơ yến từ đảo đi săn mồi sẽ khoảng 50 - 60% không trở về đảo mà vào những nhà yến trong đất liền trú ở.
Hiện tổ yến VN vẫn cung chưa đủ cầu tiêu dùng trong nước, mỗi năm các thương lái đã đưa yến Malaysia, Thái Lan và Campuchia về gần 15 tấn (số liệu hải quan khoảng trên 10 tấn, còn lại là nhập không kiểm soát) nhưng tổ yến Việt Nam cũng đã được các nhà kinh doanh đưa bán tại nhiều thị trường như Bắc Mỹ, EU, Úc, Nhật, Đài Loan, Hồng Kông, Ma Cao và Trung Quốc… dưới dạng nguyên tổ làm sạch giao cho thương nhân mang về nước, con số này không ít, cũng gần 2 tấn/năm.
Ngành nuôi chim yến ở VN là ngành sản xuất, không khói mới nên gần như chưa được các nhà hoạch định chính sách của nhà nước quan tâm, nhưng đã tự hình thành phát triển và đứng vững.
TP Hồ Chí Minh là trung tâm nuôi chim yến lớn nhất cả nước, kế tiếp là Kiên Giang, Tiền Giang, Bạc Liêu và một số tỉnh miền Trung có số nhà và sản lượng tổ yến thu nhiều.
Trong doanh thu mua bán tổ yến trên thế giới, tính vào năm 2010 là hơn 6 tỷ USD. Doanh số này đang sụt giảm vì nhiều vùng nuôi chim yến ở Indonesia, Malaysia và Thái Lan bị chựng lại do nhiều nguyên nhân, trong đó nguồn sản sinh côn trùng tự nhiên làm mồi ăn cho chim yến đã tới hạn bắt đầu đang suy kiệt dần. Nạn cháy rừng hàng năm và tác động El Nino cũng là một nguyên nhân.
Tại các nước này, trước đây có nhiều khu nuôi chim yến tập trung rất sung túc, tổng đàn chim yến rất đông, nay rất thưa thớt như “làng nhà bê tông chết”.
Nguyên nhân thất bại là khi xây dựng những làng chim yến không tính toán đúng tốc độ đô thị hóa, resort nghỉ dưỡng và các cơ xưởng đã xóa các vùng cung cấp mồi ăn cho chim yến, nên sau 15 - 20 năm những nơi nuôi chim yến tập trung gần 40% thất bại. Sản lượng tổ yến nuôi của các nước này đang giảm sút.
Tiềm năng
Ở Việt Nam, điều kiện thiên nhiên nằm ven biển, khí hậu nhiệt đới và cận nhiệt đới, nhiều rừng ngập mặn, rừng phòng hộ, đồng lúa nước, các cây trồng nhiệt đới và cả dãy Trường Sơn nơi có rất nhiều rừng cây bụi nên có sức sản sinh môi trường tự nhiên vô cùng phong phú, dồi dào chủng loại côn trùng nên trong vòng 30 - 50 năm tới tình trạng này vẫn còn giữ nguyên, nguồn côn trùng mồi ăn vẫn đủ thỏa mãn cho tổng đàn chim nuôi vài chục triệu đến trăm triệu con. Ngành nuôi chim yến của VN có thể tiến xa hơn nhiều so với các nước ASEAN như Thái Lan và Malaysia.
Theo tính toán của các nhà điểu học, tỷ lệ tăng dân số cơ học của tổng đàn chim yến VN là 10,4%/năm, đến năm 2020 tổng đàn chim yến VN sẽ là 9,28 triệu con và sản lượng tổ yến sẽ là 72,5 tấn; đến năm 2025 sẽ là 15,585 triệu con và sản lượng tổ 121,5 tấn; đến năm 2030 sẽ là 25,560 triệu con và sản lượng tổ là 200 tấn và đến năm 2035 sẽ là 42 triệu con và sản lượng tổ sẽ là 327 tấn.
Sau năm 2030, sản lượng tổ yến nuôi VN đạt 200 tấn/năm sẽ có 150 tấn tổ yến xuất khẩu trị giá khoảng 300 triệu đô Mỹ/năm và đến năm 2035, sản lượng tổ yến nuôi là 327 tấn, trong đó sẽ có 250 tấn xuất khẩu trị giá khoảng 450 triệu USD và sau năm 2050 việc xuất khẩu đạt 1 tỷ USD tổ yến VN là có thể.
Nghề nuôi chim yến ở các nước ASEAN được các nhà hoạch định kinh tế nhận định là ngành công nghiệp xanh/sạch, không khói... sử dụng một diện tích đất rất khiêm tốn, dùng rất ít công nhân, không tốn kém điện năng, tạo ra nguồn thực phẫm dinh dưỡng bồi bổ sức khỏe có giá trị xuất khẩu ngoại tệ lớn.
Tới năm 2035, để có chỗ ở cho 42 triệu chim yến, VN cần có 700.000m2 sàn nhà yến hữu dụng hay khoảng 9.000 - 10.000 nhà yến, cần khoảng 300 - 400ha đất, sử dụng 13 triệu kW điện/năm. Tạo việc làm cho 20.000 lao động giản đơn chăm sóc nhà yến, 150.000 công lao động xây dựng (xây dựng thêm 5.000 nhà yến) và 120 triệu công lao động chế biến tổ yến mỗi năm, hiệu quả kinh tế dây chuyền rất lớn (Indonesia, mỗi năm sử dụng hơn 500 triệu công lao động chế biến tổ yến xuất khẩu).
Nhu cầu vốn, bản thân chủ đầu tư tự giải quyết tốt vì vốn đầu tư không cao, khoảng 1,5 - 2 tỷ đồng cho một nhà yến 300 - 500m2.
Theo Nguyễn Chung (Nông Nghiệp Việt Nam)
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét