Cái tên do cha mẹ đặt ra ngay từ lúc chào đời. Nói như vậy có nghĩa là người ta không thể tự đặt tên cho mình vì khi đó còn chưa biết nói thì làm sao đòi tên nọ, tên kia. Nhưng xem ra điều này chỉ đúng một phần. Thực tế đã chứng minh nếu tên xấu quá, sau này ta có quyền làm đơn xin đổi tên.
Tác giả xin thanh minh trước: bài viết dưới đây chỉ là góp nhặt chuyện vui-buồn qua cái tên của người Việt, người viết hoàn toàn không có ý châm chọc một ai. Nếu có sự trùng hợp, hoàn toàn ngoài ý muốn của tác giả.
Tại hải ngoại, trong hầu hết các cộng đồng ta thường thấy người Việt Nam gọi nhau bằng những cái tên ‘nửa nạc nửa mỡ’. Nào là anh Micheal Nguyễn, cậu Thomas Trần, cô Susan Phạm hoặc chị Lisa Lê… Đây là hiện tượng khá phổ biến vì những người trẻ thuộc thế hệ thứ hai, thứ ba vốn sinh ra tại Mỹ và mang tên “Mỹ-Việt đuề huề” từ nhỏ do cha mẹ đặt ra.
Thế nhưng, đối với những người lớn tuổi thuộc thế hệ thứ nhất, trưởng thành tại Việt Nam, con đàn cháu đống mà lại bỏ đi cái tên Việt có từ thời cha sinh mẹ đẻ để khoác lên cái tên ngoại lai như bác Robert, dì Julie thì thật là… khó chịu đối với một số người đồng hương. Ấy thế mà nhiều ông bà lớn tuổi hình như rất hãnh diện mang cái tên Mỹ trong khi nói tiếng Anh thì ít mà ra dấu thì nhiều!
Một ông bác sĩ tuổi đã cao, tên Đạm, mở phòng mạch ngay trong khu cộng đồng người Việt. Ông là trường hợp được coi là ‘đặc ân’ dành cho một số bác sĩ có bằng cấp ở ViệtNam, chỉ cần qua một cuộc thi và một đợt thực tập rồi được cấp một giấy chứng nhận để phục vụ đồng hương. Khổ nỗi, ông cũng… ‘thời thượng’, trương bảng hiệu “Dr. David Nguyen”.
Trong số thân chủ của BS Đạm có một bà khách người miền Nam, chân chất, ít học mà lại bập bẹ nói tiếng Mỹ với giọng miền Nam đặc sệt. Khi tiếp xúc với ông, bà rất kính cẩn và lễ phép: “Dạ thưa bác sĩ Đê Dzịt…”.
Bà phát âm “Đê Dzịt’ (David) một cách tôn kính và phản ứng của ông bác sĩ David cũng tỉnh bơ. Hình như ông đã quá quen với việc tên Mỹ của ông đọc theo giọng miền Nam… Cả hai đều cảm thấy tự nhiên qua lối xưng hô nhưng những người đồng hương có mặt trong phòng khám lại… cười ra nước mắt!
Một bà mang tên Tám từ Việt Nam sang đất Mỹ nhưng sau khi lấy được bằng công dân Hoa Kỳ, bà bèn đổi tên. Bà muốn mọi người phải gọi bà là Tammy, một cái tên mang âm hưởng Mỹ-Việt từ cái tên cũ. Nhiều người quen miệng gọi bà Tám, bà làm bộ không nghe, không biết đến cái tên này. Phải gọi là Tammy thì bà mới quay lại trả lời!
Bảng một số tên khá phổ biến tại hải ngoại
Có một ông thuộc thế hệ người Việt thứ nhất khi còn ở Việt Nam mang họ Bùi, tên Liêm: Bùi Liêm. Sang đến Mỹ, tên của ông được chính thức trở thành "Liêm Bùi" theo cách viết tên trước họ sau của người Mỹ. Nhưng khổ nỗi, trong tiếng Anh không có dấu nên tên của ông trên giấy tờ được viết là Liem Bui. Các bạn đồng hương nói đùa: “Tên gì mà kỳ cục quá, nghe như… liếm b…!”.
Để không bị chế giễu, ông vẫn giữ họ Bùi nhưng tên Liêm đổi thành Robert hầu tránh ngộ nhận chết người… Tưởng đâu thoát nạn nhưng ông lại gặp thêm rắc rối vì cái tên mới.
Số là người Mỹ thường gọi Robert qua cái tên thân mật Bob. Hóa ra tưởng đã yên thân với tên Robert Bui, nay ông lại khốn đốn vì cái tên thân mật Bob Bui. Bạn đồng hương lại có dịp chọc quê: “Liếm b… chưa đủ hay sao mà lại còn đổi là bóp b…”.
Có những gia đình Việt được Mỹ hóa hoàn toàn. Những cái tên quen thuộc như thằng cu Bi, con Út, ông Lượm, bà Thắm nay được thay bằng thằng John, con Cecile, ông Jim, bàJolie. Hình như họ muốn không còn dính dáng gì đến cái xứ Việt Nam bên kia bờ Thái Bình Dương. Họ muốn quên hẳn tổ tiên ông bà, xa lánh đồng hương và thậm chí còn tìm mua nhà ở vùng Mỹ "trắng" vì ở gần người Việt có nhiều… phiền toái.
Nói đi thì phải nói lại. Không phải người Việt nào cũng gặp chuyện rắc rối khi phải đổi tên tại Mỹ. Trái lại, việc đổi tên nhiều khi cũng thuận lợi, dễ dàng đối với một số người.
Chẳng hạn như chữ "Văn" trong tên đệm thường thấy ở tiếng Việt. Van, không dấu, vốn là tên thường dùng ở Hòa Lan như tên các cầu thủ Van Basten, Van de Saar hoặc tên họa sĩ nổi danh Van Gogh nên cũng khá phổ biến tại Mỹ.
Nhiều người Việt tại Mỹ đã đổi họ Lê hay Lý sang Lee. Nổi bật trong phong trào này là hệ thống 32 cửa hàng bánh mỳ thịt theo kiểu Việt Nam tại các tiểu bang California, Arizona, Oklahoma và Texas của gia đình ông Lê Văn Chiêu.
Thay vì lấy tên là Lê’s Sandwiches ông đã chọn thương hiệu Lee’s Sandwiches, cái tên này nghe có vẻ dễ nhớ hơn đối với khách hàng người bản xứ.
Lee’s Sandwiches cũng đã khai trương cửa hàng Lee’s Coffee tại Sài Gòn vào một ngày chỉ toàn số 8: "8 giờ 8 phút, ngày 8 tháng 8 năm 2008 tại số 80 Hàm Nghi, Quận 1!" (Chơi số 8 không thua gì Trung Quốc chọn ngày khai mạc Thế vận hội Bắc Kinh 8/8/2008)
Cửa hàng Lee’s Sandwiches tại Mỹ
Không phải người Việt đổi sang họ Lee vì họ muốn mang quốc tịch Hàn Quốc mà vì Lee là cái tên khá phổ biến tại Mỹ. Như Robert E. Lee, vị tướng Mỹ nổi tiếng trong thời Nội chiến Nam-Bắc. Hiện tại có đến hàng chục thị trấn mang tên Lee trải dài khắp nước Mỹ từ Đông sang Tây.
Dù có dấu hay không dấu, những cái tên như Đỗ Văn Sơn đổi sang tiếng Anh chỉ cần bỏ dấu thành Do Van Son, dễ đọc và cũng dễ hiểu đối với người bản xứ, tương tự như Davidson, Ericson, Dickinson…
Trường hợp Lê Văn Thơm (hoặc Lý Văn Thơm) sẽ biến thành Lee Van Thom, cũng na ná như tài tử nổi tiếng Lee Van Cleef trong các phim cao bồi Wild Wild West của Mỹ. Tên Thơm phát âm giống như Tom của Mỹ mà lại trùng tên với nhà toán học nổi tiếng người Pháp, René Thom. Hoàn toàn không có ý ‘thấy người sang bắt quàng làm họ’ vì ông Lê Văn Thơm chẳng biết (mà cũng không cần biết) René Thom là ai đâu!
Những người có tên thuộc loại trên chắc cũng thầm cám ơn cha mẹ đã khéo đặt tên cho mình. Ngược lại, có những cái tên rất đẹp khi còn ở đất Việt, sang đến Mỹ bỗng trở thành một nỗi phiền muộn.
Các cô có tên đẹp như Mỹ Dung, Hạnh Dung, các cậu quý tử như Anh Dũng, Hùng Dũng đều nhanh chóng đổi tên vì những ‘bất đồng’ về ngôn ngữ và văn hóa giữa tiếng Anh và tiếng Việt.
Những tên như Dung hoặc Dũng lại trở nên ‘khó nghe’ đối với người bản xứ vì khi phát âm hoặc khi viết nó lại đồng nghĩa với từ ‘dung’ trong tiếng Anh, có nghĩa là… phân súc vật. Hóa ra, Mỹ Dung lại biến thành ‘my dung’.
Dù có dấu hay không dấu, những cái tên như Đỗ Văn Sơn đổi sang tiếng Anh chỉ cần bỏ dấu thành Do Van Son, dễ đọc và cũng dễ hiểu đối với người bản xứ, tương tự như Davidson, Ericson, Dickinson…
Trường hợp Lê Văn Thơm (hoặc Lý Văn Thơm) sẽ biến thành Lee Van Thom, cũng na ná như tài tử nổi tiếng Lee Van Cleef trong các phim cao bồi Wild Wild West của Mỹ. Tên Thơm phát âm giống như Tom của Mỹ mà lại trùng tên với nhà toán học nổi tiếng người Pháp, René Thom. Hoàn toàn không có ý ‘thấy người sang bắt quàng làm họ’ vì ông Lê Văn Thơm chẳng biết (mà cũng không cần biết) René Thom là ai đâu!
Những người có tên thuộc loại trên chắc cũng thầm cám ơn cha mẹ đã khéo đặt tên cho mình. Ngược lại, có những cái tên rất đẹp khi còn ở đất Việt, sang đến Mỹ bỗng trở thành một nỗi phiền muộn.
Các cô có tên đẹp như Mỹ Dung, Hạnh Dung, các cậu quý tử như Anh Dũng, Hùng Dũng đều nhanh chóng đổi tên vì những ‘bất đồng’ về ngôn ngữ và văn hóa giữa tiếng Anh và tiếng Việt.
Những tên như Dung hoặc Dũng lại trở nên ‘khó nghe’ đối với người bản xứ vì khi phát âm hoặc khi viết nó lại đồng nghĩa với từ ‘dung’ trong tiếng Anh, có nghĩa là… phân súc vật. Hóa ra, Mỹ Dung lại biến thành ‘my dung’.
Nhà hàng Mỹ Dung trên đất Mỹ
Người Mỹ làm sao hiểu được vì cớ gì có những nhà hàng được người Việt đặt tên là My Dung, thật ra là Mỹ Dung! Họ thắc mắc nhưng không nói ra: “Chẳng lẽ nhà hàng sang trọng như vậy lại phục vụ món…”. Lại còn tiệm bánh mì Mỹ Dung trên đất Hoa Kỳ nữa chứ:
Tiệm bánh mì Mỹ Dung ở Los Angeles
Ở Áo (Austria), có một ngôi làng nhỏ mang tên Fucking. Đến lượt người Việt lại thắc mắc, không biết dân làng này sống bằng nghề gì? Họ làm gì ngoài việc "fucking"? Xin đưa ra một tấm ảnh làm bằng chứng:
Bảng tên một ngôi làng tại Áo (hình trên Flickr)
Lại còn những tên Cư, Cự, Cử, Cừ khi viết bằng tiếng Anh không dấu chỉ là ‘Cu’, tạo một ấn tượng không đẹp với các đồng hương. Nếu du lịch sang Hungary, những ông ‘Cu’ này, lại biến thành ‘Cut’ vì trong tiếng Hung những túc từ được thêm âm T khi dùng dưới dạng bổ nghĩa. Chẳng hạn như người Hung sẽ nói: “Tôi thích ông… Cut (có dấu móc trong chữ u)!”
Một trường họp khác cũng khá oái oăm về cái tên của người Việt. Tiếng Nga không có chữ cái tương đương âm H, vì vậy chữ cái X (như âm KH trong tiếng Việt) được dùng thay chữ cái H. Ví dụ, nếu tên tiếng Việt là Huy, viết trong tiếng Nga thành Xyи (X=H, Y=U, И=Y), đọc thành Khuy. Theo tôi biết, Khuy trong tiếng Nga có âm giống như tên bộ phận kín của đàn ông!
Người viết xin kể một chuyện thuộc loại ‘tiếu lâm’ như sau. Hai đồng hương người Việt đã lớn tuổi gặp nhau tại Little Saigon, một ông tự giới thiệu: “Tôi tên Thompson”. Ông kia mới nghe qua đã cảm thấy bị ‘sốc’ vì cái tên Mỹ của người ‘da vàng mũi tẹt’.
Thompson, Carbine, Garant vốn là tên của các loại súng dùng trong chiến tranh nên ‘tương kế tựu kế’, ông HO từ Việt Nam mới sang Mỹ, đáp một cách tỉnh bơ: “Tôi tên Colt 45!”.
Không biết ông Thompson có hiểu thâm ý của người bạn mới quen? Colt 45 là loại súng ngắn dành cho sĩ quan còn Thompson chỉ là tiểu liên dành cho binh sĩ! Ông HO chắc không có ý gì khác ngoài việc sửa lưng người đồng hương… mất gốc.
Xin khẳng định một lần nữa, người viết hoàn toàn không có ý đả phá hay châm chọc chuyện lấy tên Mỹ hay sửa tên Việt sau khi đã đậu bằng công dân Hoa Kỳ. Một khi đã sống trên nước Mỹ mình phải thay đổi để dễ dàng thích nghi và mau chóng hội nhập. Tuy nhiên, vấn đề là dùng tên đó như thế nào và trong trường hợp nào.
Nên chăng, khi đi làm sở Mỹ, tiếp xúc với người Mỹ, hoặc khi hữu sự ta dùng tên Mỹ để việc giao tiếp với người bản xứ được dễ dàng hơn. Tuy nhiên, khi tiếp xúc với đồng hương thì không lý do gì để tự giới thiệu mình là Thompson, David, Tammy trong khi mình vẫn còn có những tên thuần túy từ đất nước Việt Nam như Thơm, Đạm, Tám.
Trước khi chấm dứt bài viết này, xin nói một chút về cái tên của người Việt ngay trên đất Việt.
Bạn hãy thử tưởng tượng một thành phần nội các chính phủ gồm toàn những người thuộc dòng Tôn Thất của nhà Nguyễn xa xưa. Điều gì sẽ xảy ra khi chính phủ có ông Bộ trưởng Y tế mang tên Tôn Thất Đức, Bộ trưởng Lao Động Tôn Thất Nghiệp, Bộ trưởng Nông nghiệp Tôn Thất Bát, Bộ trưởng Kinh tế Tôn Thất Bại, Bộ trưởng Quốc phòng Tôn Thất Trận, Bộ trưởng Giáo dục Tôn Thất Học, Bộ trưởng Kế hoạch & Đầu tư Tôn Thất Sách…
Người đọc chắc hẳn sẽ rùng mình với danh sách những vị bộ trưởng dòng Tôn Thất. Theo một người mang tên Vũ Như Cẩn, kịch bản tuy mang tính cách hư cấu nhưng vẫn có khả năng xảy ra nếu tình hình thực tế… vẫn như cũ!
***
Thơ Rằng:
''Trời đâu bày truyện hý-trường'':
'Da Vàng Mũi Tẹt' khoa-trương tiếng người!
Quê xưa đất cũ lìa bờ,
Tiên Ngôn, Tổ Ngữ: vật-vờ bèo trôi!
Nhi-nhô Mường-Mán ỉ-ôi:
'Hau a-rờ dú? ' (1), 'Bông-dua Mơ-sừa ' (2)
Hỡi ơi thân-phận lưu-vong,
Nhà tan, cửa nát long-đong xứ người,
Rồng Tiên gẫy cánh lưng trời,
Trước thì mất nước, nay thời mất con.
Tiền nhân chín suối tủi hờn,
Ngậm cay, nuốt đắng vì phường súc-sanh,
Húy-danh, gia-phả dành dành,
Nhẫm tâm thay đổi, cố thành Mỹ, Tây:
Nam thì 'Đá-Vịt' (3), 'Rờ-Mông' (4)
Nữ thời 'Ái-Lín' (5), với 'Mê-Ly-Sờ' (6)
Còn đâu 'Bảo-Quốc', 'An-Bang',
Còn đâu 'Thủy-Yến', 'Ngọc-Lan' hiền lành.
Sử xanh ghi-khắc dành dành,
Ngàn năm Bắc thuộc, dân mình bền gan:
Một lòng phục quốc trừ gian
Tiếng ta, ta giữ hiên ngang giữa trời.
Dân ta vận mạt, hết thời,
'Hậu-sanh khả-ố' nghìn đời bôi danh!
Ai ngờ mới chỉ dăm năm
Bầy con mất gốc, tan-tành nếp xưa!
Thôi rồi! Chúng đã đổi thay:
'Lòng lang, dạ sói', yên bầy 'Chuối con' (7)
---------------------
1. Hau a-rờ dú? = How are you?
2. Bông-dua Mơ-sừa = Bonjour Monsieur
3. Đá-Vịt = David
4. Rờ-Mông = Raymond
5. Ái-Lín = Irene
6. Mê-Ly-Sờ = Melisse
7. Chuối con = Banana. Biệt-danh này, người Mỹ tặng những kẻ Á-Đông mất gốc cố ra vẻ Mọi con. Dẫu cho bọn này có thay lòng đổi dạ cùng thay tên đổi họ, miệng nhi nhô 'Tây-Ninh' với 'Mỹ-Tho' thì da chúng vẫn vàng đâu sao trắng được!
(Trích Hồi Ức Một Đời Người – Chương 10: Thời xuống lỗ)
------------------------
Việc đổi tên ở nước ngoài là chuyện chẳng đặng đừng. Nó giúp cho cuộc sống nơi xứ người dễ dàng thêm một chút. Hơn nữa mình sống ở nước nào lấy tên thường gọi ở nước đó thì cũng không có gì gọi là vọng ngoại hay mất gốc.
Trên một số diễn đàn của người Việt cũng đã có tranh luận về đề tài tên ta tên Tây này. Có người chê trách những người Việt lấy tên Tây và cũng có người coi đó là chuyện bình thường. Vừa rồi tôi có một người bà con nhập cư vào Australia theo diện đoàn tụ gia đình. Tôi đã giúp cô ta làm một số giấy tờ, dĩ nhiên là có kê khai tên tuối nên có cảm hứng viết bài này. Hy vọng sau khi đọc xong bạn đọc có một cái nhìn thoáng hơn về việc này.
Trước hết xin nói sơ qua về cách viết tên của người Australia. Tôi nghĩ người Mỹ, Anh, Canada và các người Âu châu khác cũng giống vậy thôi. Tên người Australia được chia làm ba phần: tên gọi (first name), tên giữa (middle name) và họ (last name, surname, family name). Riêng tên giữa có thể bao gồm nhiều tên. Tên gọi và tên giữa thường được gộp lại gọi là tên đặt (given names). Tên đầy đủ gọi là full name bao gồm tên gọi + tên giữa + họ.
Thí dụ: Nếu ta thấy tên David Trevor Paul Taylor thì tên gọi là David, họ là Taylor còn tên giữa là Trevor Paul, nghĩa là tên viết trước họ viết sau. Hằng ngày mọi người gọi ông là David. Trong những trường hợp trịnh trọng thì người ta gọi ông là Mr. Taylor.
Tên trên hầu hết các đơn từ của Australia thường bao gồm hai phần: họ và tên đặt. Nếu ông Australia ở trên có điền một loại đơn gì đó thì ta sẽ thấy như thế này:
Từ "family name" được dùng vì người Australia có tập quán là khi người đàn bà lấy chồng thì họ đổi sang lấy họ chồng. Cho tên tất cả mọi người trong một gia đình có chung một họ. Dĩ nhiên người đàn bà vẫn có thế giữ họ cũ (tiếng Anh gọi là maiden name) nếu họ muốn. Nếu họ muốn đổi họ thì chỉ cần cầm tờ hôn thú đến các cơ quan đã cấp các loại giấy tờ của mình để người ta làm lại giấy tờ khác với họ mới.
Còn người Việt chúng ta thì sao? Tên người Việt được viết giống như người Trung Quốc, nghĩa là họ viết trước và tên viết sau. Riêng cái tên thì thường là tên kép, bổ nghĩa lẫn nhau. Thí dụ Thanh Vân, Hùng Cường, Hữu Tài và một số tên nữ còn có kèm thêm chữ "Thị" nữa. Một điều ta cũng thấy ở đây là tên người Việt đa số có gốc Hán Việt, chữ trước bổ nghĩa cho chữ sau. Chẳng hạn Thanh Vân có nghĩa (đơn giản)... là mây xanh. Cho nên nếu viết ngược lại theo kiểu người Australia thì cái tên hết còn ý nghĩa.
Trở lại trường hợp của người bà con của tôi đã nói ở trên, thì tên cô ta trên cuốn sổ hộ chiếu Việt Nam là Phạm Thị Thu Nguyệt. Cái tên khá hay phải không các bạn. Người mới đến Australia định cư việc đầu tiên là phải đi làm thẻ bảo hiểm sức khỏe gọi là medicare card. Trong đơn xin thẻ medicare tôi điền như thế này:
Cô nhân viên medicare không chịu và nói là tên phải viết đúng như trong sổ hộ chiếu mặc dầu tôi đã giải thích là tên gọi hằng ngày (first name) của cô ta là Nguyệt chứ không phải Thị. Nhưng cuối cùng rồi tôi cũng phải điền như sau:
Tuy nhiên cũng có trường hợp nhân viên họ chấp nhận tên đặt (given names) viết theo cách thứ nhất, nghĩa là Nguyet Thi Thu. Nếu viết tên theo cách thứ nhất thì tên gọi vẫn là Nguyệt nhưng người Australia không thể nào gọi đúng tên Nguyệt. Trong tiếng Anh không có phụ âm kép "ng" nên họ không phát âm được chữ Nguyệt. Đa số họ sẽ đọc là "níu dệt" cũng như họ Nguyễn họ thường đọc là "níu dền". Còn nếu viết tên theo cách thứ hai thì tên gọi là Thi, nghĩa là tên gọi đã bị thay đổi hoàn toàn.
Trong cơ quan tôi làm việc có một chị người Việt. Khi tôi vào làm thì chị đã ở đó rồi. Mọi người trong cơ quan gọi chị là Thai. Ban đầu tôi tưởng chị tên Thai nhưng khi đứng nói chuyện riêng với tôi bằng tiếng Việt thì chị cho tôi biết tên chị là Hạnh. Vì trên giấy tờ thì tên đặt của chị là Thi Hong Hanh nên tên gọi của chị là Thi mà người Australia đọc là Thai.
Đối với một số người thì chuyện này nhỏ không có gì quan trọng. Người ta gọi mình tên gì thì mình chấp nhận tên ấy. Cũng như lúc mình sinh ra cha mẹ mình đặt tên gì thì mình lấy tên đó. Hên thì được tên hay còn xui thì chịu nhận cái tên nghe có vẻ quê mùa thô kệch. Nhưng có người lại không chấp nhận tên mình bị thay đổi một cách ngang xương như vậy. Nhất là có những người có cái tên có nghĩa rất hay như Phúc hay Phước. Vậy mà mỗi lần người Australia đọc lên là mỗi lần họ chửi thề. Có người còn ngại không dám đọc vì nghe kỳ quá. Chữ Phúc hoặc chữ Phước khi đọc theo tiếng Anh thì nó gần như đồng âm với một chữ rất tục.
Vậy thì việc đổi tên là một việc chẳng đặng đừng. Nó giúp cho cuộc sống nơi xứ người dễ dàng thêm một chút. Hơn nữa mình sống ở nước nào lấy tên thường gọi ở nước đó thì cũng không có gì gọi là vọng ngoại hay mất gốc. Vì thường chỉ đổi tên gọi thôi chứ họ thì vẫn giữ nguyên, nghĩa là cái gốc vẫn còn đó chứ có mất đâu. Các bạn cũng thấy người Hoa sống ở Việt Nam đều lấy tên Việt đó. Và hầu hết Việt kiều ở Thái Lan đều lấy tên Thái cả. Mà khi đi đổi tên thì thay vì đi lấy một tên Việt khác thì sẵn dịp này lấy luôn tên Tây cho người Australia dễ gọi.
Tôi nhận thấy không riêng gì người Việt mà các sắc dân khác cũng có đổi tên, lấy tên Australia cho tiện việc giao dịch. Người gốc Hoa thì thường không bỏ hẳn tên đặt để lấy tên Australia mà họ lấy thêm một tên Australia nữa làm tên gọi. Tôi có người bạn người Hoa sinh ở Malaysia. Tên lúc sinh của anh là Leung Cheng Siong. Nếu viết theo kiếu Australia là Cheng Siong Leung. Khi đến Australia anh ta lấy thêm tên Mark làm tên gọi (first name). Như vậy tên đặt (given names) của anh ta trở thành Mark Cheng Siong, tên đầy đủ là Mark Cheng Siong Leung.
Thường thì người Australia chỉ dùng tên gọi (first name) và họ (surname) cho mọi giao dịch và rất ít khi dùng tên giữa (middle names). Như trường hợp anh bạn người Hoa của tôi thì tên trong giao dịch hằng ngày của anh là Mark Leung. Còn người bà con của tôi thì tên giao dịch hằng ngày là Thi Pham, tên Nguyệt coi như không còn nhắc tới. Tên gọi còn có tên tắt nữa. Chắng hạn tên Robert có tên tắt là Bob, tên Richard có tên tắt là Dick, tên William có tên tắt là Bill… Tôi còn nhớ ông thủ tướng Australia trong cuối thập niên 1980 có tên là Bob Hawke. Hằng ngày báo chí, TV vẫn gọi tên ông như vậy. Nhưng nhiều người không biết tên đầy đủ của ông trên khai sinh là Robert James Lee Hawke.
Trong cơ quan của tôi có một người Australia tên John Wilson. Anh này rất thân thiện. Nhân một dịp nói chuyện về người nhập cư ở Australia anh ta cho tôi biết anh là người gốc Bỉ. Khi ông nội anh di cư qua Australia thì đổi họ lấy họ Wilson vì họ của ông người Australia không đọc được. Như vậy ta thấy ngay cả người gốc Âu châu cũng đổi tên họ cho tiện trong cuộc sống.
Nói về cái tên thì cũng còn có nhiều chuyện để nói. Đối với người Việt thì không có nhiều họ, chỉ tập trung mấy cái họ Nguyễn, Trần, Lê, Đinh, Phạm, Phan… còn tên gọi thì vô số. Người Âu châu thì ngược lại. Họ thì vô số nhưng tên gọi thì không có nhiều, chỉ quanh quẩn một số tên. Một số lớn tên gọi là tên của những nhân vật trong kinh thánh. Tôi có quen một gia đình người Hy Lạp. Theo phong tục của họ thì họ thường lấy tên của ông bà đặt cho cháu. Thí dụ bà nọ có tên là Alexandra thì khi có đứa cháu gái ngoại mới sinh cũng đặt tên nó là Alexandra. Người Mỹ còn có thói quen là đặt tên con giống y hệt tên cha. Trong trường hợp này tên con có thêm chữ Jr. (viết tắt của chữ Junior) ở cuối tên để phân biệt.
Các trẻ em người Việt sinh ra ở Australia thì một số em được cha mẹ đặt tên Australia. Chỉ tên gọi thôi chứ họ thì vẫn lấy họ Việt bình thường. Một số khác thì được đặt hoàn toàn tên Việt. Tuy nhiên nếu lấy tên Việt thì cũng nên chọn một cái tên để người Australai gọi cho đúng. Chẳng hạn Mai, An, Nam, Kim… và đừng bao giờ đặt tên mà người Australia đọc nghe kỳ cục như Phúc, Phước, Kiều, Đại, Đạm… hoặc tên có nghĩa tiếng Anh không hay như Dung, Loan, Bích…
Người ta thường nói "nhập gia tùy tục, đáo giang tùy khúc". Sống ở nước ngoài nếu có lấy một cái tên gọi thông dụng của nước đó để cho tiện việc sinh sống thì cũng không có gì phải gọi là chối bỏ cội nguồn, lai căng mất gốc. Cái tên là chỉ để phân biệt giữa người này và người khác. Cái việc làm mới là quan trọng. Trong danh sách những thí sinh đậu đầu trong kỳ thi tốt nghiệp trung học hằng năm mà báo chí Australia thường đăng đều có những tên họ là Nguyen, Tran, Le…Mặc dầu tên gọi có thể là John, Julie, Tina… nhưng người Australia vẫn biết đó là các thí sinh gốc Việt hoặc gốc Á. Theo tôi nghĩ sống ở Việt Nam mà lấy tên Tây thì mới là lạ chứ sống ở Tây mà lấy tên Tây thì cũng bình thường thôi.
Thí dụ: Nếu ta thấy tên David Trevor Paul Taylor thì tên gọi là David, họ là Taylor còn tên giữa là Trevor Paul, nghĩa là tên viết trước họ viết sau. Hằng ngày mọi người gọi ông là David. Trong những trường hợp trịnh trọng thì người ta gọi ông là Mr. Taylor.
Tên trên hầu hết các đơn từ của Australia thường bao gồm hai phần: họ và tên đặt. Nếu ông Australia ở trên có điền một loại đơn gì đó thì ta sẽ thấy như thế này:
Surname or family name: Taylor
Given names: David Trevor Paul
hoặc cũng có thể thấy như thế này:
Surname or family name: Taylor
First given name: David
other given names: Trevor Paul
Từ "family name" được dùng vì người Australia có tập quán là khi người đàn bà lấy chồng thì họ đổi sang lấy họ chồng. Cho tên tất cả mọi người trong một gia đình có chung một họ. Dĩ nhiên người đàn bà vẫn có thế giữ họ cũ (tiếng Anh gọi là maiden name) nếu họ muốn. Nếu họ muốn đổi họ thì chỉ cần cầm tờ hôn thú đến các cơ quan đã cấp các loại giấy tờ của mình để người ta làm lại giấy tờ khác với họ mới.
Còn người Việt chúng ta thì sao? Tên người Việt được viết giống như người Trung Quốc, nghĩa là họ viết trước và tên viết sau. Riêng cái tên thì thường là tên kép, bổ nghĩa lẫn nhau. Thí dụ Thanh Vân, Hùng Cường, Hữu Tài và một số tên nữ còn có kèm thêm chữ "Thị" nữa. Một điều ta cũng thấy ở đây là tên người Việt đa số có gốc Hán Việt, chữ trước bổ nghĩa cho chữ sau. Chẳng hạn Thanh Vân có nghĩa (đơn giản)... là mây xanh. Cho nên nếu viết ngược lại theo kiểu người Australia thì cái tên hết còn ý nghĩa.
Trở lại trường hợp của người bà con của tôi đã nói ở trên, thì tên cô ta trên cuốn sổ hộ chiếu Việt Nam là Phạm Thị Thu Nguyệt. Cái tên khá hay phải không các bạn. Người mới đến Australia định cư việc đầu tiên là phải đi làm thẻ bảo hiểm sức khỏe gọi là medicare card. Trong đơn xin thẻ medicare tôi điền như thế này:
Surname or family name: Pham
First given name: Nguyet
Other given names: Thi Thu
Cô nhân viên medicare không chịu và nói là tên phải viết đúng như trong sổ hộ chiếu mặc dầu tôi đã giải thích là tên gọi hằng ngày (first name) của cô ta là Nguyệt chứ không phải Thị. Nhưng cuối cùng rồi tôi cũng phải điền như sau:
Surname or family name: Pham
First given name: Thi
Other given names: Thu Nguyet
Tuy nhiên cũng có trường hợp nhân viên họ chấp nhận tên đặt (given names) viết theo cách thứ nhất, nghĩa là Nguyet Thi Thu. Nếu viết tên theo cách thứ nhất thì tên gọi vẫn là Nguyệt nhưng người Australia không thể nào gọi đúng tên Nguyệt. Trong tiếng Anh không có phụ âm kép "ng" nên họ không phát âm được chữ Nguyệt. Đa số họ sẽ đọc là "níu dệt" cũng như họ Nguyễn họ thường đọc là "níu dền". Còn nếu viết tên theo cách thứ hai thì tên gọi là Thi, nghĩa là tên gọi đã bị thay đổi hoàn toàn.
Trong cơ quan tôi làm việc có một chị người Việt. Khi tôi vào làm thì chị đã ở đó rồi. Mọi người trong cơ quan gọi chị là Thai. Ban đầu tôi tưởng chị tên Thai nhưng khi đứng nói chuyện riêng với tôi bằng tiếng Việt thì chị cho tôi biết tên chị là Hạnh. Vì trên giấy tờ thì tên đặt của chị là Thi Hong Hanh nên tên gọi của chị là Thi mà người Australia đọc là Thai.
Đối với một số người thì chuyện này nhỏ không có gì quan trọng. Người ta gọi mình tên gì thì mình chấp nhận tên ấy. Cũng như lúc mình sinh ra cha mẹ mình đặt tên gì thì mình lấy tên đó. Hên thì được tên hay còn xui thì chịu nhận cái tên nghe có vẻ quê mùa thô kệch. Nhưng có người lại không chấp nhận tên mình bị thay đổi một cách ngang xương như vậy. Nhất là có những người có cái tên có nghĩa rất hay như Phúc hay Phước. Vậy mà mỗi lần người Australia đọc lên là mỗi lần họ chửi thề. Có người còn ngại không dám đọc vì nghe kỳ quá. Chữ Phúc hoặc chữ Phước khi đọc theo tiếng Anh thì nó gần như đồng âm với một chữ rất tục.
Vậy thì việc đổi tên là một việc chẳng đặng đừng. Nó giúp cho cuộc sống nơi xứ người dễ dàng thêm một chút. Hơn nữa mình sống ở nước nào lấy tên thường gọi ở nước đó thì cũng không có gì gọi là vọng ngoại hay mất gốc. Vì thường chỉ đổi tên gọi thôi chứ họ thì vẫn giữ nguyên, nghĩa là cái gốc vẫn còn đó chứ có mất đâu. Các bạn cũng thấy người Hoa sống ở Việt Nam đều lấy tên Việt đó. Và hầu hết Việt kiều ở Thái Lan đều lấy tên Thái cả. Mà khi đi đổi tên thì thay vì đi lấy một tên Việt khác thì sẵn dịp này lấy luôn tên Tây cho người Australia dễ gọi.
Tôi nhận thấy không riêng gì người Việt mà các sắc dân khác cũng có đổi tên, lấy tên Australia cho tiện việc giao dịch. Người gốc Hoa thì thường không bỏ hẳn tên đặt để lấy tên Australia mà họ lấy thêm một tên Australia nữa làm tên gọi. Tôi có người bạn người Hoa sinh ở Malaysia. Tên lúc sinh của anh là Leung Cheng Siong. Nếu viết theo kiếu Australia là Cheng Siong Leung. Khi đến Australia anh ta lấy thêm tên Mark làm tên gọi (first name). Như vậy tên đặt (given names) của anh ta trở thành Mark Cheng Siong, tên đầy đủ là Mark Cheng Siong Leung.
Thường thì người Australia chỉ dùng tên gọi (first name) và họ (surname) cho mọi giao dịch và rất ít khi dùng tên giữa (middle names). Như trường hợp anh bạn người Hoa của tôi thì tên trong giao dịch hằng ngày của anh là Mark Leung. Còn người bà con của tôi thì tên giao dịch hằng ngày là Thi Pham, tên Nguyệt coi như không còn nhắc tới. Tên gọi còn có tên tắt nữa. Chắng hạn tên Robert có tên tắt là Bob, tên Richard có tên tắt là Dick, tên William có tên tắt là Bill… Tôi còn nhớ ông thủ tướng Australia trong cuối thập niên 1980 có tên là Bob Hawke. Hằng ngày báo chí, TV vẫn gọi tên ông như vậy. Nhưng nhiều người không biết tên đầy đủ của ông trên khai sinh là Robert James Lee Hawke.
Trong cơ quan của tôi có một người Australia tên John Wilson. Anh này rất thân thiện. Nhân một dịp nói chuyện về người nhập cư ở Australia anh ta cho tôi biết anh là người gốc Bỉ. Khi ông nội anh di cư qua Australia thì đổi họ lấy họ Wilson vì họ của ông người Australia không đọc được. Như vậy ta thấy ngay cả người gốc Âu châu cũng đổi tên họ cho tiện trong cuộc sống.
Nói về cái tên thì cũng còn có nhiều chuyện để nói. Đối với người Việt thì không có nhiều họ, chỉ tập trung mấy cái họ Nguyễn, Trần, Lê, Đinh, Phạm, Phan… còn tên gọi thì vô số. Người Âu châu thì ngược lại. Họ thì vô số nhưng tên gọi thì không có nhiều, chỉ quanh quẩn một số tên. Một số lớn tên gọi là tên của những nhân vật trong kinh thánh. Tôi có quen một gia đình người Hy Lạp. Theo phong tục của họ thì họ thường lấy tên của ông bà đặt cho cháu. Thí dụ bà nọ có tên là Alexandra thì khi có đứa cháu gái ngoại mới sinh cũng đặt tên nó là Alexandra. Người Mỹ còn có thói quen là đặt tên con giống y hệt tên cha. Trong trường hợp này tên con có thêm chữ Jr. (viết tắt của chữ Junior) ở cuối tên để phân biệt.
Các trẻ em người Việt sinh ra ở Australia thì một số em được cha mẹ đặt tên Australia. Chỉ tên gọi thôi chứ họ thì vẫn lấy họ Việt bình thường. Một số khác thì được đặt hoàn toàn tên Việt. Tuy nhiên nếu lấy tên Việt thì cũng nên chọn một cái tên để người Australai gọi cho đúng. Chẳng hạn Mai, An, Nam, Kim… và đừng bao giờ đặt tên mà người Australia đọc nghe kỳ cục như Phúc, Phước, Kiều, Đại, Đạm… hoặc tên có nghĩa tiếng Anh không hay như Dung, Loan, Bích…
Người ta thường nói "nhập gia tùy tục, đáo giang tùy khúc". Sống ở nước ngoài nếu có lấy một cái tên gọi thông dụng của nước đó để cho tiện việc sinh sống thì cũng không có gì phải gọi là chối bỏ cội nguồn, lai căng mất gốc. Cái tên là chỉ để phân biệt giữa người này và người khác. Cái việc làm mới là quan trọng. Trong danh sách những thí sinh đậu đầu trong kỳ thi tốt nghiệp trung học hằng năm mà báo chí Australia thường đăng đều có những tên họ là Nguyen, Tran, Le…Mặc dầu tên gọi có thể là John, Julie, Tina… nhưng người Australia vẫn biết đó là các thí sinh gốc Việt hoặc gốc Á. Theo tôi nghĩ sống ở Việt Nam mà lấy tên Tây thì mới là lạ chứ sống ở Tây mà lấy tên Tây thì cũng bình thường thôi.
(Mục:Tham khảo)
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét